Mô hình nuôi nhím thương phẩm tại thôn Đông Ninh, xã Đông Thọ.Bứt phá từ quyết sách chiến lược
Giai đoạn 2021 – 2025, tỉnh Tuyên Quang đã ban hành 27 nghị quyết, đề án và kế hoạch về nông nghiệp và phát triển nông thôn. Đây là những quyết sách có tính định hướng lâu dài, tạo đà để ngành nông nghiệp chuyển từ sản xuất nhỏ lẻ, phân tán sang quy mô hàng hóa lớn, gắn với chuỗi liên kết và ứng dụng công nghệ cao. Việc tổ chức triển khai được thực hiện khẩn trương, đồng bộ, qua đó phát huy tối đa lợi thế so sánh và nguồn lực đặc thù của tỉnh.
Ngành nông nghiệp tỉnh đã chủ động ứng dụng khoa học – công nghệ rộng rãi từ giống cây trồng, vật nuôi đến quy trình chăm sóc, bảo quản, giúp nâng cao năng suất, chất lượng và tiêu chuẩn hàng hóa, đáp ứng yêu cầu ngày càng cao của thị trường trong nước và quốc tế. Nông nghiệp đã và đang đóng góp quan trọng vào tăng trưởng kinh tế, xây dựng nông thôn mới, tạo việc làm và nâng cao thu nhập cho người dân Tuyên Quang.
Nhờ đổi mới tư duy và áp dụng công nghệ, nông nghiệp Tuyên Quang đạt nhiều kết quả ấn tượng: sản lượng lương thực hằng năm khoảng 600.000 – 750.000 tấn, sản lượng gỗ rừng trồng trên 1 triệu m³, sản lượng chè xuất khẩu thuộc nhóm cao của cả nước. Tỷ lệ che phủ rừng đạt 62%, cao nhất trong số các tỉnh miền núi phía Bắc. Toàn tỉnh hiện có 454 sản phẩm OCOP từ 3 sao trở lên, trong đó 2 sản phẩm đạt chuẩn 5 sao.
Cùng với đó Tuyên Quang cũng đã tập trung phát triển chăn nuôi hiện đại, ứng dụng công nghệ, đến nay toàn tỉnh đã có: 51 cơ sở chăn nuôi đạt VietGAP, 14 cơ sở an toàn dịch bệnh; Chăn nuôi bò vàng, trâu thịt theo chuỗi giá trị; Quy mô đàn ong tới 177.000 đàn, sản lượng 1.100 tấn mật/năm, tạo thương hiệu mật ong bạc hà – một trong những sản phẩm đặc sắc nhất miền núi phía Bắc.
Chuyển đổi số trở thành một trong những điểm sáng nổi bật. Toàn tỉnh đã có hơn 270 sản phẩm nông sản chủ lực được truy xuất nguồn gốc, đưa lên các sàn thương mại điện tử như Shopee, Lazada, Tiki và các sàn giao dịch nông sản chuyên biệt. Nhờ tem QR, người tiêu dùng dễ dàng tra cứu thông tin chi tiết về quy trình canh tác, ngày thu hoạch, địa điểm sản xuất.
Điều này giúp tăng tính minh bạch, tăng độ tin cậy và gia tăng giá trị thương hiệu cho nông sản Tuyên Quang, đồng thời giúp nông dân giảm phụ thuộc vào thương lái và nâng cao thu nhập.
Song song với số hóa, tỉnh đẩy mạnh phát triển nông nghiệp hữu cơ và tuần hoàn. Mô hình VAC được cải tiến theo hướng khép kín, tối ưu hóa chất thải từ chăn nuôi để làm phân bón và xử lý nước thải nuôi thủy sản.
Mỗi năm, Tuyên Quang trồng hơn 11.000 ha rừng, duy trì vị trí dẫn đầu khu vực miền núi phía Bắc về phát triển rừng. Đây là nền tảng quan trọng để tỉnh phát triển các mô hình nông – lâm kết hợp, tạo thu nhập ổn định, đồng thời đóng góp tích cực cho bảo vệ môi trường.
Phát triển kinh tế tập thể
Cùng với tái cơ cấu ngành, tỉnh chú trọng củng cố hệ thống hợp tác xã (HTX) – lực lượng nòng cốt trong tổ chức sản xuất và liên kết tiêu thụ. Toàn tỉnh hiện có 1.546 HTX, với hơn 34.800 thành viên, tổng vốn hoạt động trên 1.600 tỷ đồng. Các HTX nông – lâm nghiệp chiếm tỷ lệ lớn và phát triển mạnh ở các lĩnh vực thủy lợi, cung ứng vật tư, chăn nuôi, thủy sản, tiêu thụ nông sản. Nhiều HTX kiểu mới đã ứng dụng công nghệ cao, xây dựng thương hiệu, sở hữu sản phẩm OCOP và tham gia sâu vào chuỗi liên kết bền vững.
Tỉnh Tuyên Quang đang ghi nhận những bước tiến vững chắc trong việc phát triển và quảng bá các sản phẩm Hằng năm, các HTX được tập huấn nâng cao năng lực quản trị, kết nối cung cầu, hỗ trợ chuyển đổi số và thương mại điện tử. Các khâu sản xuất – chế biến – tiêu thụ nông sản dần được tổ chức lại theo mô hình doanh nghiệp, hợp tác xã, thay thế phương thức nhỏ lẻ truyền thống. Tuy nhiên, phần lớn vẫn là các HTX nhỏ, tài chính yếu, khó tiếp cận nguồn vốn ưu đãi do thiếu tài sản thế chấp, thiếu cơ chế tín dụng đặc thù.
Để tháo gỡ khó khăn và nâng cao hiệu quả hoạt động, Tuyên Quang đang thúc đẩy mạnh mô hình liên kết nông dân – HTX – doanh nghiệp, tổ chức sản xuất theo quy hoạch và định hướng thị trường.
Tỉnh khuyến khích tích tụ, tập trung đất đai để hình thành vùng sản xuất quy mô lớn; chuyển từ cơ chế hỗ trợ bao cấp sang hỗ trợ tín dụng ưu đãi, tạo động lực cho HTX mở rộng sản xuất, nâng cao hiệu quả khai thác nguồn lực nhà nước.
Tuyên Quang xác định, nông nghiệp tiếp tục là trụ đỡ quan trọng của nền kinh tế, đóng vai trò bảo đảm an sinh và bền vững phát triển. Trong nhiệm kỳ tới, tỉnh chủ trương phát triển kinh tế nông nghiệp xanh, thích ứng với biến đổi khí hậu, chuyển mạnh từ tư duy “sản xuất nông nghiệp” sang “kinh tế nông nghiệp”.
Trọng tâm là xây dựng các mô hình nông nghiệp sinh thái, nông nghiệp hữu cơ, nông nghiệp tuần hoàn; phát triển chuỗi giá trị của các cây trồng – vật nuôi chủ lực và các sản phẩm đặc sản địa phương.
Với chiến lược rõ ràng, nông nghiệp Tuyên Quang đang từng bước khẳng định vị thế mới: từ nền nông nghiệp truyền thống chuyển sang nền kinh tế nông nghiệp đa giá trị, xanh, thông minh và bền vững, sẵn sàng bước vào giai đoạn phát triển cao hơn trong nhiệm kỳ tới.