Các nghệ nhân Cơ Ho biểu diễn nhạc cụ truyền thống, lan tỏa vẻ đẹp âm nhạc dân gian của dân tộc mìnhTừ “tiền âm nhạc” đến dân ca chuẩn tắc
Trong kho tàng văn hóa của nhiều dân tộc ở Việt Nam và trên thế giới, thể thức “hát - nói” xuất hiện khá sớm, như một hình thức “tiền âm nhạc” tồn tại trong đời sống cộng đồng. Ở đó, yếu tố “nói” giữ vai trò chính, còn “hát” chỉ mang tính phụ họa.
Theo NSƯT, nhạc sĩ Krajăn Dick, trong lịch sử của người Cơ Ho, thể thức “hát - nói” cũng được hình thành từ rất sớm và vẫn tồn tại đến ngày nay. Hình thức này có thể xem như bước khởi đầu của âm nhạc dân gian, với những kiểu thức tiêu biểu như Yalyau, Đơschrih và Nhorkon - những thể loại “hát như nói” có tính dị bản cao, phổ biến rộng rãi trong cộng đồng. Nội dung của chúng thường chứa đựng yếu tố nhân văn, giáo dục sâu sắc, là tiền đề để hình thành nên dòng dân ca Cơ Ho hoàn chỉnh và đặc sắc.
Trước tiên là lối hát Yalyau, nghĩa là “ngẫm ngợi chuyện xưa”. Người Cơ Ho có thể hát Yalyau từ ngày sang đêm, thậm chí kéo dài 3 ngày 3 đêm liền với những bản dài như K’Jai-Ka Lìn, Sa pur mang Ya Mòng-Dòi, K’Tằng dăm Prah… Một bài Yalyau gồm nhiều câu hát, giai điệu giữa các câu gần như thống nhất, mở đầu bằng âm “Ơ…ơ…” kéo dài. Nhịp điệu của Yalyau tự do, phóng khoáng, mang đậm tính ứng tác. Chính vì thế, Yalyau được xem như hình thức âm nhạc truyền miệng linh hoạt, đậm chất ngẫu hứng.
Thể loại thứ hai là Dơschrih. Trong tiếng Cơ Ho, “Dơs” nghĩa là “nói”, “chrih” là “chuyện lạ” nên Dơschrih có thể hiểu là “những câu chuyện được hát lên”. Đây là lối hát để kể những điều mới lạ, vui tươi, thường được cất lên trong các chuyến đi xa để làm vơi mệt nhọc. Dơschrih không nặng tính giáo huấn như Yalyau mà gần gũi, dung dị hơn - kể về con suối, ngọn núi, loài vật hay những điều thân quen quanh buôn làng. Già K’Điệp chia sẻ: “Dơschrih thường pha chút hài hước, khiến người nghe vui vẻ. Về hình thức, nó có nét tương đồng với đồng dao của người Việt”. Dưới góc nhìn nhạc học, Dơschrih là bước phát triển cao hơn so với Yalyau.
Một hình thức khác là Nhorkon, nghĩa là “hát ru con”. So với Dơschrih, bài Nhorkon ngắn hơn, thường chỉ 5 - 7 câu và được hát liền hơi. Trong thể loại này, người ta bắt gặp sự kế thừa từ lối hát - nói giản dị của Yalyau, Dơschrih đến cấu trúc âm nhạc hoàn chỉnh như Lảhlông và Tầmpớt. Ở Nhorkon, lời hát chan chứa đạo lý làm người, tình yêu thiên nhiên, tinh thần cộng đồng và trách nhiệm với gia đình, buôn làng.
Nhạc sĩ Krajăn Dick nhận định: “Khác với những loại hình tiền âm nhạc kể trên, từ xa xưa, người Cơ Ho đã sáng tạo ra âm nhạc dân gian thực thụ - những hình thức ca hát được định hình rõ nét, do chính dân gian sáng tác và lưu truyền qua truyền miệng. Hai loại hình tiêu biểu là Tầmpớt và Lảhlông vốn đã đạt đến tính chuẩn tắc nhất định”.
Tầmpớt là hình thức hát đối đáp, thách đố bằng âm nhạc. Một bài Tầmpớt không giới hạn số lượng câu hát, song thường không quá dài như Yalyau. Mức độ dài ngắn phụ thuộc vào nội dung chào mời, đối đáp và ứng tác, nhưng đều phải tuân theo những làn điệu khuôn mẫu. Người hát Tầmpớt phải có vốn sống, khả năng ứng đối nhanh và nắm vững giai điệu. Mỗi bài gồm nhiều câu, mỗi câu thể hiện một ý, thường ngắt đột ngột, tạo cảm giác dồn dập. Khi lời đối và đáp hòa quyện, bài Tầmpớt xem như hoàn chỉnh. Lối hát này thường vang lên trong các nghi thức chào khách - chủ nhà và khách luân phiên đối đáp qua câu hát.
Âm sắc nhạc cụ truyền thống Cơ Ho- thanh âm kết nối quá khứ và hiện tại trong dòng chảy văn hóa Tây Nguyên. Ảnh Hà Hữu NếtBên cạnh đó, Lảhlông là lối hát giao duyên rất phổ biến, đặc biệt trong lớp trẻ. Trong tiếng Cơ Ho, “Lảhlông” nghĩa là “lời nói êm ái, tình tứ”. Qua những buổi hát Lảhlông, biết bao đôi trai gái đã tìm thấy tình yêu, trao vòng đính ước, thề nguyện gắn bó trọn đời. Mỗi bài Lảhlông gồm nhiều câu hát dài ngắn khác nhau, nhưng đều tuân theo quy luật nhịp điệu chặt chẽ. Dù hát nhiều hơi, người hát vẫn phải giữ nhịp đúng, thể hiện sự ổn định về tiết tấu và phách. Chính điều này cho thấy Lảhlông đã đạt đến độ hoàn thiện của một thể dân ca chuẩn tắc.
Điệu hát ru bên dòng Đạ R’yàm
Trong những chuyến đi qua các buôn làng dưới chân núi Brah Yàng thuộc xã Bảo Thuận, tỉnh Lâm Đồng, đôi khi chúng tôi nghe văng vẳng đâu đó giai điệu chậm, nhẹ nhàng “ơ mờl lơi, ơ kòn lơi” vang lên từ những người mẹ Cơ Ho. Cô giáo Ka Thúy, người con của xứ Brah Yàng cho biết, đó chính là điệu Đơschrih pơnđiang kòn - tức “điệu hát ru con”.
Ka Thúy kể: “Hồi nhỏ, đi học xa nhà, tôi luôn nhớ mẹ, nhớ bếp lửa, nhớ tấm ùi gơjùng bạc màu thấm mồ hôi và nhớ da diết điệu hát ơ kòn lơi của buôn làng”. Những người mẹ Cơ Ho ngày ấy, vừa cõng con trên lưng, vừa khe khẽ hát: “Ơ mờl lơi/ Mẹ cõng con với tấm ồi gơjùng/ Mẹ bế con với tấm ồi gơjùng/ Mẹ nuôi con bằng cơm trong pơrlơ/ Ơ kòn lơi”…
Đó là giai điệu của khúc hát ru con, đôi khi còn được gọi là khúc hát “mã kòn”. Theo lời ru ấy là cả một hệ quan niệm nhân sinh sâu sắc. Như bao người mẹ khác, người mẹ Cơ Ho cũng gửi gắm vào lời ru niềm yêu thương và lời hứa giản dị: “Đừng khóc nữa con ơi/ Mẹ bận hái rau bèo ngoài ruộng/ Mẹ bận hái rau má ngoài ruộng/ Mẹ bận đi tìm củ mpàr ngoài ruộng/ Nấu chảy thành mỡ béo cho con/ Đựng vào tô nhỏ cho con”.
Không chỉ vỗ về, lời ru còn là thông điệp về lòng dũng cảm: “Con sẽ đi trên trăm dốc đá - đừng sợ/ Con sẽ đi trên trăm đồi đá - đừng sợ/ Khi nước trong xúc cá - đừng sợ con ơi…”
Những câu ca ấy mộc mạc nhưng chứa đựng bao tình thương và triết lý sống. Giai điệu êm đềm ấy gắn với cây cỏ, núi rừng, với bao buồn vui của đời sống đồng bào. Từ đó, tâm hồn và cốt cách người Cơ Ho được hình thành, kết tinh thành bản sắc văn hóa riêng trong bức tranh đa sắc của văn hóa Việt Nam.